SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán  chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi... song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn.

          1.  Văn chính luận

§  Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh.
§  Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ  Lê Thái Tông (1433 - 1442)

§  Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác này vẫn còn chưa rõ ràng, dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán.
Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433
§  Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ.

          2.  Địa lý

§  Dư địa chí là quyển sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam.

          3.  Thơ phú

§  Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng.
§  Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục : Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Đây là tập thơ nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam
§  Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422.
§  Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán.
        Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay.
        Tuy nhiên, tác phẩm có thể coi là nổi tiếng nhất của Nguyễn Trãi là BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO :
        Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viếtBình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh.
Bình Ngô đại cáoBình Ngô đại cáoBình Ngô đại cáoBình Ngô đại cáo
Nguyên văn "Bình Ngô đại cáo"
Trích trong Hoàng Việt Văn Tuyển phát hành năm 1825, bản lưu trữ tại thư viện Quốc gia Việt Nam




        Tháng Chạp năm Đinh Mùi (1427), Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô Đại Cáo" để thông báo cho toàn thể quốc dân thiên hạ biết. Tác phẩm "Bình Ngô Đại Cáo" mà Nguyễn Trãi viết sau khi đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi năm 1428, là một "áng văn hùng tráng suốt thiên cổ", trịnh trọng tuyên bố nền độc lập hoàn toàn của đất nước, đồng thời tổng kết chặng đường 10 năm chiến đấu, lên án tội ác của giặc Minh. Phạm trù nhân nghĩa với nội dung tư tưởng tiến bộ, được Nguyễn Trãi nêu lên như một sức mạnh tinh thần; đối chọi với sự bạo tàn, tăm tối của quân đội xâm lược trung cổ Phương Bắc. Tư tưởng nhân dân của phong trào Lam Sơn được Nguyễn Trãi phát hiện, tổng kết dùng làm lợi khí đánh giặc và động viên nhân dân kháng chiến đã giành được những thành tựu to lớn. Tư tưởng này bao gồm trong hai chữ: "Nhân", "Nghĩa". Nhân nghĩa là yêu nước và thương dân, có nhân nghĩa mới được nhân dân ủng hộ do đó mọi việc mới thành công. "Phàm mưu việc lớn, lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công lớn, lấy nhân nghĩa làm đầu. Chí nhân nghĩa gồm đủ, công việc mới xong xuôi" (Nguyễn Trãi - toàn tập, trang 94). Nguyễn Trãi đã nói rõ đường lối nhân nghĩa trong việc trị nước của ông là: "Thời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn". Trọng người hiền tài cùng biểu hiện tư tưởng dân chủ của ông, một truyền thống tốt đẹp hình thành từ trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Có thể nói, công lao lớn đầu tiên của Nguyễn Trãi trên lĩnh vực tư tưởng là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và cũng rất sớm đối với lịch sử thế giới, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách mạnh mẽ và đanh thép sự tồn tại của dân tộc Việt Nam. Đó là quyền độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết và quyền bảo tồn phát triển nền văn hoá của dân tộc Việt Nam.
        Trong tâm trí thế hệ các con cháu hôm nay và mai sau, ngôi sao Khuê Nguyễn Trãi mãi mãi còn chiếu sáng, mãi mãi là một vị anh hùng dân tộc, thể hiện trong ông ý chí kiên cường, sáng suốt của một vị cố vấn quan trọng, một thi sĩ tài ba, một nhà ngoại giao và là nhà chiến lược quân sự xuất sắc. Nguyễn Trãi là sản phẩm của dân tộc, là sự kết tinh của tinh hoa dân tộc và thời đại, là người phát ngôn tư tưởng lí tưởng lớn của thời đại. Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét